WHĐ (18.06.2020) - Nhân cách của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II minh họa rõ ràng người linh mục lý tưởng của thiên niên kỷ mới phải ra sao. Người bạn thân và đấng kế vị ngài, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, bổ sung lý tưởng này.
Ngoài những diễn từ của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI, cho đến giờ có ít suy tư xem tân Phúc âm hóa có nghĩa là gì. Thực thế, Hội đồng Giáo hoàng mới được thành lập về việc tân Phúc âm hóa liệt kê trách vụ số một là “khảo sát sâu xa ý nghĩa thần học và mục vụ của việc tân Phúc âm hóa.” Ngoài ra, Thượng Hội đồng Giám mục vừa qua cũng thảo luận đề tài này. Điều tôi hy vọng làm ở đây là áp dụng việc tân Phúc âm hóa vào đời linh mục thánh thiện, với những suy tư cá nhân dựa trên những giáo huấn của Thánh kinh và của hai vị giáo hoàng trên đây, cũng như trên những gương sáng của những vị thánh đương thời và những người lành thánh khác. Việc luận bàn thích đáng về đề tài này đòi phải xem xét toàn bộ tiến trình đào luyện linh mục, cũng như trách vụ suốt đời liên lỷ học hỏi, đào sâu và lượng giá lại ơn gọi chúng ta, sau khi được thụ phong cho đến cuối đời.[1]
1. CUỘC KHỦNG HOẢNG CĂN TÍNH LINH MỤC
Trước Công đồng Vatican II, người ta thường coi các linh mục thuộc một tầng lớp đặc biệt, nếu không nói là một giai cấp, nổi bật, với hình ảnh và những trách vụ của người linh mục được xác định rõ ràng trong Giáo Hội. Mọi Kitô hữu biết rằng tước hiệu “cha” có những sức mạnh tinh thần lớn lao. Bởi lẽ linh mục biến đổi bánh rượu thành Mình và Máu Đức Kitô; ngài mở và đóng cửa thiên đàng bằng cách ban hay không ban ơn xá giải; ngài làm cho người hấp hối dễ dàng đi vào thiên đàng bằng cách ban cho họ những nghi thức sau cùng. Ngài nắm quyền bính trên những công việc giáo xứ, cả Giáo Hội lẫn trường học; nếu có bất kỳ vấn đề lương tâm nào, bạn đến với người cha đó.
Nhưng sau khi giáo lý của Công đồng Vatican II về giáo dân trở nên phổ biến, dân chúng bắt đầu tái khám phá chân lý truyền thống của Công giáo rằng hết thảy mọi thành phần của Giáo Hội đều chia sẻ tư cách linh mục vương giả của Đức Kitô, rằng mỗi phần tử có một đặc sủng riêng biệt, nhờ đó họ phải góp phần vào việc xây dựng Giáo Hội. Sánh bên với điều ta gọi là “chức linh mục thừa tác”, một phạm vi rộng lớn của những tác vụ khác nảy sinh, từ thừa tác viên giới trẻ đến vị tư vấn hôn nhân, qua người điều hành lo việc dạy giáo lý, tất cả rộng mở cho giáo dân nam nữ trong giáo xứ. Và người ta đặt ra câu hỏi: vậy linh mục thừa tác còn cần vào việc gì nữa đây? Nay xem ra giáo dân có thể đảm nhận mọi sự, trừ ra một vài nghi thức bí tích. Những thần học gia nổi tiếng nói về ơn gọi hướng tới tác vụ bí tích như một trong nhiều tác vụ sẵn đấy, thay vì [nói tới] ơn gọi linh mục.
Nếu chức linh mục chỉ là một trong nhiều tác vụ, thật khó mà thấy đó là một ơn gọi thường hằng. Nó dễ dàng bị tráo đổi với một công việc khác trong Giáo Hội. Một linh mục chán nản và kiệt lực có thể nói: “Tôi cảm thấy có lẽ giúp ích cho đời hơn nếu tôi trở thành nhà tư vấn, làm việc xã hội, tâm lý gia, hay DRE (giám đốc lo việc dạy giáo lý) trong một giáo xứ. Dĩ nhiên, sẽ chẳng có vấn đề lập gia đình, và tôi có thể gia nhập ‘thế giới thực sự’”.
Như luôn xảy ra trong lịch sử, cực đoan này đòi hỏi một cực đoan khác. Đối lại với “lối tiếp cận ‘hãy đơn giản gọi tên tôi là đủ rồi’ cũng như cố gắng hết sức tỏ ra là một người ‘bình thường’, thì giữa những chủng sinh và linh mục trẻ nảy sinh một chiều hướng đối nghịch. Chiều hướng này nhấn mạnh sự nổi bật đặc biệt của người linh mục – họ có vị trí cao và độc đáo trong Giáo Hội – mang y phục giáo sĩ nổi bật, xác quyết quyền bính cao cả của mình, và thường trừng trị dân chúng không xót thương từ tòa giảng.
Dĩ nhiên, tôi vừa vẽ ra những bức ký họa một chiều để giãi ánh sáng nào đó trên hai loại linh mục hiểu về chính mình; nó cho thấy rằng linh mục tự do, hay linh mục ý thức thuộc về giai cấp đều không sống theo lý tưởng linh mục mà Vatican II, cũng như các Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI đã vẽ lên. Hai giáo hoàng trên đã không bỏ cơ hội nào để chỉ ra tầm quan trọng cốt yếu của người linh mục trong Giáo Hội, đang khi tháp nhập và đào sâu những phẩm tính tích cực nhất của hai loại căn tính linh mục này.
2. MỘT LINH MỤC DUY NHẤT SONG CÓ NHIỀU VỊ LINH MỤC
Trong thánh lễ đầu tiên của một linh mục, Raymond Brown bắt đầu bài giảng của mình bằng cách chỉ ra rằng chúng ta không tìm thấy những linh mục trong Tân ước, và bằng chứng đầu tiên về tác vụ linh mục chỉ xuất hiện trong lá thư của Clement thành Roma. Dĩ nhiên, Brown nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chức linh mục; nhưng trong những bài viết khác, ông thúc đẩy Giáo Hội trở về và trân trọng Thánh kinh hơn nữa. Rồi, ta không mấy ngạc nhiên khi những người nghe ông và những nhà chú giải khác có não trạng tương tự, không nhiệt tâm ôm ấp ơn gọi linh mục. May thay (hay đúng hơn, do Chúa quan phòng), các Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI, cùng với những thần học gia và chú giải nổi bật – như Congar, Feuillet và Vanhoye – đã có thể dựa vào những nền tảng trong Thánh kinh chiếu ánh sáng về chức linh mục trong sứ mệnh của các tông đồ[2]. Như chính sứ mệnh của ngài cho thế giới xác định cuộc sống của Đức Giêsu – các tông đồ và những người kế vị, giám mục đoàn và những cộng sự viên của họ, các linh mục – tất cả đều thông phần vào sứ mệnh linh mục của Đức Giêsu Kitô, theo những mức độ khác nhau.
Không như bất kỳ tôn giáo nào khác, trong Tân ước chỉ có một linh mục và một hy tế: Đức Giêsu Kitô và việc Người dâng hiến chính mình. Giám mục và linh mục không phải là những linh mục theo quyền bính riêng của họ; họ thông phần vào sứ mệnh của Đức Giêsu bằng cách làm cho hy tế vĩnh cửu của Đức Giêsu Kitô hiện diện. Do vậy, việc Đức Kitô sai họ đi, xác định toàn bộ đời sống họ, cả hữu thể họ, hầu trải rộng sứ mệnh giảng dạy, mục tử và thánh hóa qua các thế hệ, và tới mút cùng thế giới. Vì vậy, như tư cách linh mục của Đức Giêsu Kitô, ấn tín linh mục là thường hằng và không thể xóa nhòa; ấn tín đó nắn hình không chỉ “chức năng” của người linh mục mà cả nhân cách, những tương giao, những hoạt động giải trí và đời sống công cộng và cá nhân của họ.
3. CHỨC LINH MỤC VÀ NHỮNG ĐẶC SỦNG KHÁC TRONG GIÁO HỘI
Lý tưởng cho việc tân Phúc âm hóa bao gồm sự hủy bỏ vĩnh viễn một giai cấp linh mục mà xét về mặt xã hội, cô lập chính mình khỏi giáo dân và thấy mình cao hơn giáo dân. Nó cũng đòi phải liên tục khơi dậy những đặc sủng và sự phục vụ của giáo dân trong đời sống giáo xứ, địa phận và ngay cả Giáo Hội phổ quát. Đối diện với quá nhiều trách vụ, người linh mục biết mình không thể làm việc một mình. Họ phải tìm kiếm tất cả những giáo dân có uy tín mà họ có thể tìm được – không chỉ những chuyên viên tài chính hay kiến trúc sư, nhưng cả những người có những ân điển thiêng liêng, thông thường hay lạ thường. Ngày nay, trong một giáo xứ, nhiều tác vụ giáo dân khác nhau nở rộ. Họ chuyên biệt hóa việc chăm sóc người nghèo, bệnh nhân, phụng vụ và dạy giáo lý. Họ tư vấn những cặp đính hôn và vợ chồng; họ giúp những người ly dị. Con số của những tác vụ này vẫn gia tăng. Những hoạt động muôn mặt và khác nhau buộc người linh mục phải có một tư cách lãnh đạo đòi hỏi hơn, thành thạo hơn. Vừa tranh thủ sự cộng tác tích cực của người khác, vừa điều phối những hoạt động của họ, góp ư phê bình và khuyến khích họ, đấy mới là một thách đố lớn lao hơn nhiều so với thời xưa. Một đàng, chúng ta vẫn thấy quá nhiều trường hợp các mục tử hành xử cách chuyên chế. Đàng khác, một số linh mục và giám mục lại hiểu sai những đòi hỏi của thời kỳ hậu Công đồng; họ bỏ mặc nguyên lý về một người chịu trách nhiệm, và cho phép nhân viên giáo xứ đi theo đường lối của họ mà chẳng cung cấp cho họ hướng dẫn và phương hướng nào. Nếu một mục tử hay giám mục chuyển trách nhiệm cho những người khác về điều đang xảy ra trong giáo xứ hay địa phận của mình, thì sai lầm cũng thật nghiêm trọng như thể ông cố gắng tự mình làm mọi sự. Xét cho cùng, chính vị mục tử sẽ phải trả lẽ trước Thiên Chúa về từng con chiên của mình.
4. CHỨC LINH MỤC THỪA TÁC NHƯ SỰ PHỤC VỤ LƯỠNG DIỆN
Vị linh mục lo đến việc tân Phúc âm hóa nhìn ơn gọi của mình cùng một cách như Phaolô, và tất cả các giám mục, linh mục và giáo hoàng thánh thiện đã làm: “Chúng tôi không rao giảng chính mình, nhưng Đức Giêsu Kitô là Chúa, và chính chúng tôi là nô lệ của anh chị em vì Đức Giêsu.” (2 Cr 4:5). Vậy, chức linh mục là sự phục vụ lưỡng diện. Linh mục phục vụ Đức Kitô bằng cách rao giảng Đức Kitô, hơn là chính mình, và phục vụ dân chúng vì Đức Kitô. Linh mục vẫn coi cử hành các bí tích, và, nhất là, cử hành Thánh Thể, là tâm điểm trong tác vụ của mình. Nhưng ngày nay hơn cả trước kia, linh mục hiểu rằng các bí tích biến đổi đời sống các tín hữu chỉ với điều kiện chúng được tiếp nhận với đức tin sống động. Như vậy, người giáo sĩ dành nhiều thời giờ và năng lực hơn cho việc rao giảng và dạy dỗ Lời Chúa để thắp lửa và đào sâu đức tin của dân Người. Ta có thể nhìn thấy trách vụ này cách tốt nhất trong cử hành Thánh Thể. Bằng cách rao giảng Lời Chúa, linh mục chuẩn bị cộng đoàn lãnh nhận Lời đã làm người trong Thánh Thể. Như tôi tớ của Đức Kitô, riêng một mình linh mục được có khả năng khiến cho Đức Kitô hiện diện trong hy tế của Người, dưới những dấu chỉ bánh và rượu. Tuy nhiên, hoạt động tư tế của linh mục nhằm hiện thực hóa chức linh mục của toàn cộng đoàn: Nhờ Đức Kitô, tất cả các tín hữu được gọi để cùng với linh mục hiệp dâng lên Chúa Cha chính Đức Kitô, và chính mình.
5. TÔI TỚ HAY NGƯỜI ĐẠI DIỆN MANG TÍNH BÍ TÍCH CỦA ĐỨC KITÔ?
Một mâu thuẫn (antinomy) sai lạc đương thời khác làm cho cuộc thảo luận về mối liên hệ của linh mục với Đức Kitô thành rối ren. Linh mục là doulos Iesou Christou (tôi tớ của Đức Kitô), như Phaolô thích qui chiếu tới chính mình; hay là sự biểu thị bí tích của Đức Kitô, một alter Christus? Trong Tân ước, và trong truyền thống Giáo Hội, gồm cả những văn kiện huấn quyền gần đây nhất, cả hai hạn từ không loại bỏ nhưng đúng hơn, minh tỏ lẫn nhau. Một số thần học gia, như Dennis Ferrara, thì đúng khi chủ trương rằng vai trò của linh mục, đúng như vai trò của vị tông đồ, phải là và phải hành động như một tôi tớ, một nô lệ của Đức Kitô. Tuy nhiên, điều những nhà thần học như ông không thấy là sự nối kết nội khởi giữa tư cách tôi tớ triệt để và sự biểu thị bí tích. Nếu chúng ta chấp nhận sự minh tỏ sau đây của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, thì những vai trò bổ sung của hai định nghĩa trên được nên sáng sủa: ... nhóm chữ “in persona Christi” có nghĩa hơn là việc hiến dâng ‘nhân danh’ hay ‘trong cương vị’ của Đức Kitô. In persona có nghĩa là trong sự đồng nhất hóa biệt loại có tính bí tích với vị Linh mục tối cao đời đời; thật sự, Người là tác giả và chủ thể chính của hy tế này, một hy tế trong đó không ai có thể lấy chỗ của Người.[3]
Sự phục vụ này hàm ẩn một sự lụy phục Đức Kitô cách triệt để nhất và được chấp nhận trong tự do. Nếu linh mục chỉ là một tôi tớ được Đức Kitô ủy quyền, thì Đức Kitô có thể không là “chủ thể chính” của hành vi bí tích, bởi lẽ chỉ mình ủy viên của Người hiện diện mà thôi. Đang khi đó “sự đồng nhất hóa biệt loại của bí tích” có nghĩa rằng linh mục không chỉ hành động như một sứ giả của Đức Kitô vắng diện, nhưng linh mục tự do để cho Đức Kitô chiếm hữu những hành vi bí tích của mình theo một cách thức đến nỗi chính Đức Kitô hành động qua linh mục. Một sự lệ thuộc như thế vào Đức Kitô theo hữu thể học liệu không phải là thứ nô lệ triệt để nhất được tự do chấp nhận sao? Nay chúng ta thấy nguy hiểm của sự hiểu lầm diễn ngữ, alter Christus. Linh mục không nhân bội Đức Kitô; họ là những ‘khí cụ’ sống động và tự do của một Đức Kitô duy nhất, đấng hiện diện như “chủ thể chính của những hành động của họ.” Vậy sự chấp nhận hiện sinh này sẽ dẫn tới một nỗ lực có ý thức về phía linh mục để Đức Kitô sống và chiếu sáng qua con người và đời sống hằng ngày của linh mục; đàng khác, linh mục phải chống lại cám dỗ liên lỷ là lẫn lộn chính mình với con người Đức Kitô.[4] Thánh Bênađô thuật lại câu chuyện về con ngựa chở vị hoàng tử. Con ngựa nghĩ rằng tất cả danh dự và tung hô được nhắm đến mình. Bênađô viết, vị giám mục hay linh mục nào nghĩ rằng sự kinh ngạc và kính trọng được nhắm đến cá nhân mình hơn là đến Đức Kitô, Đấng mà họ biểu thị (đại diện) đúng là một kẻ ngu ngốc như thế đó. Thực vậy, một kinh nghiệm buồn thảm là thấy một linh mục buộc mình phải đóng vai mà đòi họ phải trở thành một kẻ giả hình. Nói cách khác, họ cảm thấy họ có bổn phận phải tỏ ra thánh thiện, và thực thế [phải tỏ ra] thánh thiện hơn họ thực sự là thế.
Một vị linh hướng khôn ngoan thích lặp lại cho các chủng sinh của mình: “Mỗi ngày, con hãy quỳ gối trước chức linh mục của con.” Khi hôn kính dây Stola, con hãy nghĩ đến lời khuyên này. Chúng ta phải học để sống sự nghịch lý này: sự thông phần của chúng ta vào tư cách linh mục của Đức Kitô phải biến đổi và xác định toàn bộ cuộc sống cá nhân chúng ta, đồng thời, nuôi dưỡng nơi chúng ta ý thức rằng chức linh mục của chúng ta mãi mãi vẫn là một tặng phẩm không cân xứng mà chúng ta nhận được để phục vụ kẻ khác. Bênađô so sánh vai trò của linh mục với vai trò của Gioan Tẩy giả. Gioan Tẩy giả đi trước Đức Kitô để chuẩn bị đường cho Người, và thời khắc vĩ đại nhất trong đời ông là hướng tới Đức Kitô: “Đây Chiên Thiên Chúa, đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1:29). Gioan là người mai mối Chúa sai tới. Niềm vui của Gioan hoàn thành khi ông nghe chàng rể, Đấng đã tìm thấy hiền thê tinh tuyền của mình, vui vẻ lên tiếng. Ông phải nhỏ đi, nhưng Đức Kitô phải lớn lên. Theo Bênađô, ơn gọi của linh mục cũng tương tự. Linh mục dẫn các linh hồn đến với Đức Kitô, và hân hoan vì Đức Kitô và các tâm hồn mật thiết gặp gỡ nhau, hơn là đặt mình vào giữa họ.
Vậy, chức linh mục thừa tác phục vụ cho chức linh mục của các tín hữu. Chúng ta làm cho dân chúng có thể nhận biết và khích động chức linh mục của họ bằng cách thanh tẩy họ, nuôi dưỡng đức tin của họ, và làm cho hy tế vĩnh cửu của Đức Kitô hiện diện cho họ, hầu nhờ Người, với Người và trong Người, các linh mục thừa tác chúng ta và dân tư tế của Thiên Chúa có thể dâng lên Chúa Cha chính Đức Kitô cũng như chính chúng ta. Thánh Phaolô cũng diễn tả ơn gọi tư tế của mình bằng những hạn từ này: “Thật thế, v́ anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết.” (2 Cr 11, 2).
6. NGƯỜI CHA VÀ NGƯỜI MẸ CỦA CÁC TÍN HỮU
Hai trong những lời cuối cùng của Chúa chịu đóng đinh được ngỏ cho mẹ Người , và cho môn đệ được thương mến: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” và cho người môn đệ, “Đây là mẹ của anh.” Và thánh sử ghi nhận, “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.” (Ga 19, 26–27). Ratzinger cho thấy rằng Tin Mừng Gioan trình bày những lời của Đức Giêsu theo một cách thức đến nỗi khuyến khích chúng ta đào sâu ý nghĩa của nó hơn nữa. Ngài ý thức về câu nói của thánh Augustinô: “Mọi lời của Ngôi Lời đầy mầu nhiệm.” Ở đây người môn đệ biểu thị tất cả tín hữu, nhưng cũng biểu thị các tông đồ, và tất cả những người giữ những chức vụ trong Giáo Hội sau này. Và Gioan không nói từng chữ rằng môn đệ ấy nhận bà vào trong nhà mình, nhưng vào trong chính mình: eis ta idia. Nói cách khác, thánh sử muốn nói: vào trong chính đời sống cá nhân của mình, vào trong những công việc và cố gắng, vào trong cõi lòng mình. Theo Ratzinger, những lời này khích lệ tất cả các giám mục và linh mục đưa Mẹ Thiên Chúa, Nữ trinh Maria vào trong đời sống và hoạt động của mình. Những kết quả của việc Đức Maria hiện diện trong đời sống Gioan rõ ràng được phản ánh trong Tin Mừng của ông. Gioan diễn tả những mầu nhiệm của Đức Giêsu – đời sống bên trong của Người, mối liên hệ của Người với Cha, và tình yêu Người dành cho chúng ta – tuyệt hơn bất kỳ Tin Mừng nào. Đây là một lời mời cho tất cả các Kitô hữu, nhưng cách riêng cho giám mục và linh mục, để nhận mẹ Thiên Chúa vào trong đời sống và tác vụ của chính mình.[5] Chúng ta phải là những người cha đối với dân như Phaolô: “Thật thế, cho dầu anh em có ngàn vạn giám thị trong Đức Kitô, anh em cũng không có nhiều cha đâu, bởi vì trong Đức Kitô Giêsu, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1 Cr 4, 15). Nhưng chúng ta cũng là những người mẹ, nếu chúng ta thông phần vào trái tim của Mẹ Thiên Chúa và của Giáo Hội. Chúng ta phải biết rằng thánh Phaolô, luôn thật hiền phụ, nhưng ngài cũng hiểu mình là người mẹ của các tín hữu: “Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em,” (Gl 4, 19). Nếu chúng ta mời Đức Maria vào lòng chúng ta, mẹ sẽ mang chúng ta đến gần Con ngài hơn; mẹ sẽ dẫn chúng ta vào trong lòng của ngài; và như vậy, chúng ta sẽ biết lúc nào dùng đến tâm hồn hiền hậu với những người được trao phó cho chúng ta coi sóc. Nhưng chúng ta cũng biết khi nào – bắt chước Phaolô – dùng uy quyền, exousia của Đức Kitô, mà đối với Phaolô bao gồm việc khiển trách và tuyệt thông khỏi Giáo Hội.
7. KINH NGUYỆN CỦA LINH MỤC
Như đời sống của các giáo hoàng này – từ chân phước Piô IX đến Bênêđictô XVI – cho thấy, cầu nguyện là phương thế đệ nhất và hiệu quả nhất trong sự phục vụ của linh mục.[6] Mặc dù gánh nặng công việc bề bộn, những giáo hoàng này trung thành cầu nguyện thần vụ và lần hạt; họ cũng tìm nhiều giờ để cầu nguyện cá nhân. Nếu họ có thể tìm giờ cho cầu nguyện và học hỏi cá nhân, làm thế nào chúng ta có thể đáng tin khi nói: “Xin lỗi, tôi yêu thích cầu nguyện, nhưng tôi không có giờ cầu nguyện”? Nếu cầu nguyện cá nhân – trong hình thức nguyện ngắm, sách thiêng liêng và thờ lạy Bí tích cực trọng – mất khỏi một đời sống linh mục, thì việc cử hành thánh lễ, các bí tích, và đọc thần vụ trở thành chỉ là những bổn phận trong một thói quen không sức sống, thường dẫn đến một khủng hoảng thực sự trong ơn gọi chúng ta. Linh mục bắt đầu chạy khỏi chính mình, chìm ngập trong hoạt động sôi nổi. Trong nhiều trường hợp, hoạt động này có thể là công việc mục vụ hữu ích, nhưng rốt cục linh mục sẽ bị kiệt lực, hay có thể rơi vào nghiện ngập, hay một hình thức nào đó của sự vô luân tính dục.
Trong các thư của mình, thánh Phaolô nói cho các độc giả rằng ngài liên lỷ cầu nguyện cho họ, luôn xuất hiện trước Thiên Chúa, bị chất chồng bởi “nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!” (2 Cr 11, 28) Chúng ta linh mục phải ra trước nhan Thiên Chúa, mang theo chúng ta tất cả những người được trao cho chúng ta coi sóc. Chúng ta hãy dâng tất cả những kinh nguyện, hoạt động và đau khổ cho dân. Ngay cả khi chúng ta nói với Thiên Chúa về những ước ao mật thiết nhất hay những vấn đề, các tín hữu phải hiện diện ở sau tâm trí chúng ta. Tôi có thể là “người sống vì người khác” chỉ theo mức độ tôi là “người của Thiên Chúa.”
Khi chủng sinh chuẩn bị cho chức linh mục, họ sẽ chịu nhiều cám dỗ; họ phải chấp nhận nhiều cuộc đấu tranh, những cuộc đấu tranh với vâng phục, và để thủ đắc được những thói quen học tập, sự trong sạch và khiêm nhường. Vào những lúc như thế, họ hãy ý thức rằng họ chiến đấu và chịu khổ, không chỉ vì chính mình, nhưng cả vì tất cả những người được trao phó cho họ chăm sóc mục vụ. Nếu họ vượt thắng các cám dỗ, họ có thể làm chứng cách khả tín rằng ơn Thiên Chúa thì mạnh mẽ trong sự yếu đuối của chúng ta. Nếu họ thua, họ sẽ mất đi sự khả tín. Chúng ta có thể khuyến khích giới trẻ xây dựng một tính cách Kitô hữu cách hiệu quả nếu, trước khi lắng nghe những lời của chúng ta, họ thấy tính cách ấy trong đời sống chúng ta. Chúng ta phải có thể nói cho các thanh thiếu niên tuổi ‘teen’ rằng quyền năng của Đức Kitô thì mạnh mẽ hơn những con thú hoang của đam mê, giận dữ trong cõi lòng chúng. Họ có thể xiềng xích những con thú đó, và sau này, thậm chí thuần thục chúng, tới độ họ có thể dùng những năng lực được thăng hoa cho những mục đích của Thiên Chúa.
8. THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI TRONG ĐỜI SỐNG LINH MỤC
Những gương lành của Đức Kitô, và của các thánh, có thể dạy chúng ta cách hiệu quả về sự thành công và thất bại trong đời sống linh mục chúng ta. Đức Giêsu được sai vào cuộc sống trần gian chỉ dành cho Israel, nhưng Người thất bại để hoán cải chính dân Người. Đúng hơn, Người khuấy động lên sự giận dữ của giới cai trị. Họ đã giết Người cách ô nhục nhất – một hình phạt dành cho nô lệ. Thậm chí sau phục sinh và được đổ Thần khí, các tông đồ đã không mấy thành công trong sứ mệnh của họ đối với phần lớn của Israel. Khi Phêrô và Phaolô bị hành quyết ở Roma, dường như rất có thể rằng Kitô giáo sẽ bị hoàng đế Nêrô bứng rễ, và bị các lạc giáo đang lan rộng làm hư thối. Tuy nhiên, trong hai thế kỷ, Kitô giáo trở thành một lực lượng thống trị trong đế quốc Rôma. Giáo Hội luôn thắng bằng cách bị mất; giống như Đức Giêsu đi vào trong vinh quang qua sự thất bại của thập giá. Ngay cả Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II lực sĩ và cường tráng kết thúc như một người bệnh tật không có hiệu năng. Hãy nghĩ đến bức tranh cuối cùng được thiên hạ biết đến rộng rãi, trong đó đức Gioan Phaolô II đứng ở cửa sổ của khu giáo hoàng vào Chúa Nhật Phục sinh 2005 không thể thốt ra một lời ban phép lành. Tuy nhiên, trong đau khổ của mình, Đức Gioan Phaolô lại hiệu quả hơn cả trong những lúc khỏe mạnh. Quyền năng của Thiên Chúa được tỏ lộ khi kẻ yếu được làm nên mạnh mẽ; khi kẻ chết được phục sinh. Vì thế, tại sao chúng ta phải kỳ vọng hậu quả khác cho chính mình? Có lẽ chúng ta là những gương sáng về khiêm nhường và bác ái khi chúng ta ốm đau và yếu đuối, tốt hơn ngay cả khi chúng ta giảng những bài giảng hay nhất.
Công việc của chúng ta là từng bước thực thi kế hoạch của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta phải cố gắng bao nhiêu có thể để là những tôi tớ trung thành nhất của Đức Kitô. Nhưng chúng ta đừng bao giờ cố gắng đo lường sự thành công của tác vụ chúng ta. Chúng ta phải đặt kết quả trong tay Thiên Chúa.
9. LỜI KÊU GỌI TÂN PHÚC ÂM HÓA TRONG THẾ GIỚI MỚI CHÚNG TA ĐANG ĐỐI DIỆN
Chúng ta được gọi để tân Phúc âm hóa, bởi vì thế giới đương thời, vốn đang sinh ra trước mắt chúng ta, đòi hỏi một sự lượng giá mới về tình trạng mới. Chúng ta phải đọc “những dấu chỉ thời đại”, dùng những năng lực mới, những vị thánh mới, những trực giác mới và những lời mới – tối hậu một lễ Ngũ Tuần mới – để công bố Đức Giêsu Kitô theo một cách thức chạm tới tâm hồn các tín hữu, cũng như những người không tin.
Chúng ta đọc bất cứ tin tức nào, một trong những chữ thường xuyên nhất chúng ta gặp là “toàn cầu hóa”: viễn cảnh toàn cầu, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, cảnh báo toàn cầu, thị trường toàn cầu, mạng toàn cầu, các phương tiện toàn cầu, v.v. Càng trở nên toàn cầu, chúng ta càng đối diện với nguy hiểm toàn cầu là một cuộc thảm sát nguyên tử. Nhưng, ngay cả bây giờ, chúng ta thấy những cuộc chiến tranh và nổi dậy địa phương, những hoạt động khủng bố vốn gởi đi những làn sóng di dân toàn cầu, tìm kiếm sự an toàn và lương thực, và trên hết, một căn nhà trong một quốc gia mới, ở đó họ có thể tìm được sự bình an tương đối.
Tuy nhiên, vẫn thiếu mất yếu tố quan trọng nhất để thế giới được hiệp nhất; một sự duy nhất tinh thần (thiêng liêng), có thể kiến tạo sự hài hòa và bình an trong sự đa dạng gây hoang mang của tôn giáo, văn hóa, quốc gia và những nhóm dân tộc. Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI chấp nhận, và ngay cả trân trọng, sự kiện rằng các Kitô hữu, những Kitô hữu thực hành, là một thiểu số trong thế giới. Ngài thích chỉ ra rằng những nhóm thiểu số sáng tạo luôn luôn thay đổi thế giới. Hãy xét đến thí dụ của Hy lạp thượng cổ. Trong thế giới thượng cổ, Hy lạp là một quốc gia nhỏ. Tuy nhiên, văn hóa của họ chiến thắng Âu châu, và hầu như cả thế giới. Hãy nghĩ đến Kitô giáo ở bốn thế kỷ đầu tiên. Họ là một thiểu số trong đế quốc Roma, nhưng họ biến đổi thành một khối cộng đồng Kitô hữu, gồm có, không chỉ văn hóa Hy lạp Roma đương thời, mà cả những bộ lạc mọi rợ đang xâm chiếm.
Mục đích trực tiếp của các giám mục và linh mục không thể là sự biến đổi của xã hội quốc tế thành một sự duy nhất bình an, hài hòa trong sự đa dạng. Đó là vai trò của giáo dân. Những tác viên của Giáo Hội phải nhắm đến việc xây dựng cộng đoàn Kitô hữu, thân mình Đức Kitô. Thánh Phaolô nói về ơn gọi của mình như một tông đồ bằng những lời này: “làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hoá mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 15, 16).
Vậy đây là ơn gọi của linh mục: rao giảng, dạy dỗ và cử hành các bí tích, làm cho các tín hữu của cộng đoàn mình có thể dâng chính mình như một hy tế thiêng liêng cho Thiên Chúa – trong, và qua, và với việc tự hiến của Đức Giêsu Kitô. Ơn gọi của từng cá nhân Kitô hữu tiên vàn là dâng hiến chính thân xác mình; ơn gọi của linh mục là giúp toàn cộng đoàn được trao phó cho ngài coi sóc, để được nắn hình và khuôn rập theo sự thờ phượng thiêng liêng này. Theo Tertulianô, dân ngoại trong thế kỷ thứ hai nói về các Kitô hữu: “kìa xem họ yêu thương nhau biết bao.” Như vậy, nhiều người trong họ tự nguyện gia nhập Giáo Hội. Đàng khác, nếu linh mục nhắm đến hoạt động chính trị, và xem mục tiêu đầu tiên của họ là những công nhân xã hội trong môi trường của họ, họ sẽ nên đồng hình với xã hội, và bị nuốt trôi vào những bất đồng và chống đối. Đây là nghịch lý của ơn gọi linh mục: chỉ với điều kiện linh mục tập trung vào việc làm cho dân chúng có thể trước hết tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì dân này sẽ hành động như men trong xã hội lớn rộng hơn.
Ta cũng thấy rằng đối nghịch giữa hai điều được gọi là “những lý tưởng linh mục” thật hời hợt biết bao và thậm chí sai lầm nữa: linh mục cử hành bí tích và linh mục cử hành đời sống. Nếu cử hành bí tích, nhất là Thánh Thể, không tạo động lực và không làm cho dân chúng mạnh mẽ yêu mến và phục vụ như Đức Giêsu Kitô, thì chúng phung phí ân sủng của các bí tích cho chính mình, Ơn sủng được ban cho chúng ta trong Thánh Thể, nhưng tiếp nhận ơn sủng ấy thì không tự động. Nếu linh mục rao giảng, dạy dỗ và cử hành các bí tích cách đúng đắn, và dân ngài đáp lại cách chân thành, thì cả linh mục và cộng đoàn tìm thấy chính mình, và cũng cùng nhau, trong cái mà một số người gọi là “đời sống thật sự” – theo sau và phục vụ những người đang tìm chân lý, đang đau khổ và đói lương thực vật chất và thiêng liêng. Nhưng nếu linh mục chỉ cử hành cái gọi là “đời sống thực tế” và lãng quên tác vụ bí tích của mình, tình yêu và sự phục vụ của linh mục sẽ không khác với của một công nhân xã hội tốt. Hãy cho tôi thêm điều này, giới hạn ơn gọi của linh mục vào “tác vụ bí tích” thì rất nguy hiểm; điều ấy rất dễ đưa đến giới hạn vai trò của linh mục vào phòng áo và bàn thờ, cung cấp cho ngài một lời biện hộ dễ dãi để rút khỏi việc sinh động và là ví dụ điển hình cho sự phục vụ mà ngài phải kỳ vọng từ dân ngài.
Đức Gioan Phaolô II nói ngày 9 tháng 6 năm 1979 tại Mogila, Ba Lan, lần đầu tiên về “Tân Phúc âm hóa” trong cuộc thăm viếng quê hương sau khi trở thành Giáo hoàng. Ngài ngỏ lời cho đám đông, đứng trước nơi mà một Thánh giá mới và nhà thờ mới đã được dựng lên do dân chúng tại đền thánh của Thánh giá (tại Nowa Huta), bất chấp nhiều chướng vật mà chế độ cộng sản đã dựng lên để ngăn cản nó. Thực thế, chính vị hồng y Wojtyla kỳ đó đã dẫn cuộc chiến vốn đưa đến Thánh giá mới và nhà thờ mới. Hãy cho tôi trích dẫn từ bài giảng của ngài:
Không xa mấy từ chỗ này, Thánh giá mới bằng gỗ được dựng lên vào chính lúc chúng ta đang cử hành Niên kỷ (của Ba Lan). Với Thánh giá ấy, chúng ta được ban một dấu chỉ rằng, trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới, trong những thời đại mới này, những điều kiện mới của cuộc sống, Tin Mừng lại được công bố. Việc ‘tân Phúc âm hóa’ bắt đầu, như thể nó là một sự công bố mới, mặc dù trong thực tế nó là như nhau mãi mãi. Thập giá đứng cao trên thế giới đang xoay chuyển.
Khung cảnh thật biểu tượng. Đức Gioan Phaolô công bố phải tân Phúc âm hóa giữa một hệ thống chính quyền vô thần thù nghịch, muốn nhắm loại bỏ Kitô giáo. Ngài cho dân Ba lan thấy sự nối kết nhất thiết giữa Tin Mừng và nhân tính của con người, tương lai của Ba lan, và tương lai của thế giới. Hãy loại bỏ thập giá, và bạn sẽ loại đi sự xứng đáng và phẩm giá của con người và bạn lấy đi khỏi Ba lan cái hồn của Ba lan. Sự nối kết bất khả tránh né này giữa đức tin và thuyết nhân bản chân thật, sẽ là chính trung tâm của việc rao giảng và viết lách của ngài suốt 24 năm trên ngai tòa Phêrô, trước tiên là ngài đối kháng chủ thuyết cộng sản, và sau khi sự sụp đổ của nó, đối kháng chủ thuyết tư bản tự do xả láng. Không có Thiên Chúa, nhân tính của con người bị che khuất, và con người bị co rút vào người hữu ích hay vô ích giữ một nhiệm vụ bình thường của những mãnh lực duy lợi.
Tuy nhiên, ngay cả hơn những lời của ngài, nhân cách của Đức Gioan Phaolô II nhập thể lý tưởng của tân Phúc âm hóa. Nhân cách giầu có và trưởng thành của ngài tạo nên một ấn tượng sâu xa và mãi mãi trên dân chúng. Nhiều người có thể không hiểu những câu văn trừu tượng và dài dòng của ngài, nhưng họ vẫn nhiệt thành về điều họ thấy và nghe. Đôi khi, ngài lớn tiếng và khiển trách; lúc khác, ngài ôm ấp những người đau khổ dịu dàng như một người mẹ, đang khi luôn luôn tỏa chiếu một tình yêu và sức mạnh nội tâm. Điều này làm những nhà lãnh đạo Ba lan co rúm lại trước ngài, cuối cùng trở nên mềm yếu và hết tác hại, ngay cả một kẻ thù lâu đời chống Giáo Hội, Fidel Castro. Nhân cách của ngài đồng thời phổ quát – ôm ấp tất cả những chủng tộc khác nhau. Ngài cũng duyên dáng và đầy tình cha đến nỗi giới trẻ Toronto, Canada, khi thấy ngài đã hô to: “ngài là cha và ông ngoại chúng con.” Ngay cả trong tuổi già, khi bệnh Parkinson đã héo hắt khuôn mặt ngài thành một mặt nạ nghiêm khắc, vẫn tỏa chiếu một sức mạnh trẻ trung từ con mắt của ngài vốn rung động những trái tim của giới trẻ, qua chính lúc cuối cuộc đời. Đó không đơn giản là một lời nói dối đạo đức, khi chúng hát vào ngày giới trẻ thế giới rằng: “Đức giáo hoàng trẻ trung.” Khi ngài chết, khoảng 3 triệu người tuôn đến Roma, Công giáo và không công giáo. Ngay nhiều người không công giáo cảm thấy rằng trong cuộc hấp hối của ngài, họ đã mất đi người cha hay ông ngoại của mình.
Tôi cần phải vẽ bản phác họa ngắn này về nhân cách của Karol Wojtyla/Giáo hoàng Gioan Phaolô II vì điều đó minh họa rõ ràng linh mục lý tưởng của thiên niên kỷ mới phải là thế nào, mutatis mutandis (với những thay đổi cần thiết). Người bạn thân, nhưng rất khác biệt, của ngài và đấng kế vị ngài, Giuse Ratzinger/giáo hoàng Bênêđictô XVI, bổ sung lý tưởng này. Ngài thiếu những phẩm tính của một ngôi sao nhạc Rock của giáo hoàng Gioan Phaolô II, ảnh hưởng không cưỡng được của sự hiện diện cá nhân của ngài. Nhưng, sự nồng ấm chân thật, sự khiêm nhường và hiền dịu của Đức Bênêđictô đã chiến thắng ngay cả một số những kẻ thù trước kia của ngài. Tuy nhiên, rất ít người biết sự biến đổi này đã đòi hỏi ngài nhiều như thế nào – sự thay đổi từ một giáo sư đại học nhút nhát đến một nhà truyền giáo thường xuyên di chuyển, mà nụ cười nhân hậu của ngài muốn ôm ấp mọi người trên hành tinh chúng ta. Ngài muốn xây dựng trên gia sản của Đức Gioan Phaolô. Ngài tiếp tục nói cần phải tân Phúc âm hóa, và mới đây mặc dù ngài nổi tiếng chống đối bất kỳ sự gia tăng nào trong hành chánh rườm rà của Vatican, ngài đã thiết lập “Hội đồng giáo hoàng cổ võ việc tân Phúc âm hóa”, chọn đề tài “tân Phúc âm hóa” cho Thượng Hội đồng Giám mục tại Roma.
Giáo hoàng Bênêđictô XVI cũng muốn nói cho hết thảy mọi người Tây phương vốn là Kitô hữu theo lịch sử, nhắc nhớ những quốc gia này về cội rễ công giáo của họ. Tuy nhiên, tiêu điểm của ngài dường như nhỏ hẹp hơn, hay thực tế hơn, của Gioan Phaolô II. Ngài hy vọng xây dựng những thiểu số Kitô hữu mạnh mẽ và sáng tạo, vì ngài thâm tín rằng những thiểu số sáng tạo luôn nắn hình văn hóa. Vào cuộc triều yếu đầu tiên, các phóng viên đã kinh ngạc. Như một người trong họ nói: “Thực sự chúng tôi hiểu điều ngài nói”, điều đó không là trường hợp thông thường với Gioan Phaolô II. Nhưng, hơn thế nữa, là điều mà Bênêđictô XVI đã đạt được. Ngài nói về những mầu nhiệm cơ bản của Kitô giáo theo một cách mới mẻ đến nỗi những thính giả Kitô hữu uyên bác ngạc nhiên thú nhận: “cho tới nay chúng tôi đã chưa bao giờ ý thức rằng đây là điều mà mầu nhiệm này muốn nói.”
Trong thế giới mới của chúng ta, trong đó con số những sinh viên đại học tốt nghiệp gia tăng nhiều, một thách đố mới hầu như không được tri nhận đang đối diện với linh mục Công giáo hôm nay. Ngày càng nhiều hơn, người Công giáo chúng ta thiếu những vị có tư cách lãnh đạo tri thức mà sẽ giúp họ giữ vững đức tin giữa một văn hóa ngày một trần tục hơn. Giống như một người Tin lành có học cao có thể coi khinh những cội rễ có tính chủ nghĩa cơ bản (fundamentalist), thì nhiều người công giáo có học không thấy mình thoải mái trong nhiều giáo xứ. Nhiều linh mục không thể giúp họ nối kết giữa đức tin và nền giáo dục của họ – giữa mạc khải của Thiên Chúa và thế giới của triết học, khoa học, văn chương và nghệ thuật. Chúng ta quên, tới một mức độ lớn, rằng Giáo Hội Công giáo, chính bởi vì là Công giáo (có sứ mệnh biến đổi mọi người và toàn đời sống của con người) đã khởi hứng và nắn hình văn hóa suốt lịch sử của mình. Ai có thể minh chứng một cách thuyết phục các giáo dân chúng ta rằng Giáo Hội là người cổ võ và khởi hứng học hỏi, nếu không phải là linh mục Công giáo? Trong chính đời sống mình, một số linh mục phải tỏ ra rằng lý trí và đức tin, sự uyên bác và căn tính Công giáo, đó là những đồng minh tự nhiên, hơn là những kẻ thù bất cộng đái thiên. Những linh mục như thế sẽ không phải là những thầy giáo và học giả thêm vào cho tư cách linh mục của họ, nhưng là những linh mục thực hành và sống tư cách linh mục của mình qua giảng dạy và công việc học thuật. Họ không ngắt quãng một lớp toán học với những lời khuyến thiện tôn giáo, hay dành chỗ thứ nhất trong một khóa học văn chương cho các tác giả Kitô hữu. Đúng hơn họ có một sự kính trọng chân lý ở bất kỳ nơi đâu người ta tìm kiếm chân lý. Bằng cách cổ xúy tri thức về chân lý, họ sẽ dẫn các sinh viên tới gần Thiên Chúa, nguồn mạch mọi chân lý. Chỉ một sự cam kết cho tất cả chân lý và cho chân lý vì chính chân lý, mới là công giáo.
Lối tiếp cận phe phái hay cục bộ hoàn toàn đối nghịch với chức linh mục. Dù công giáo hay không công giáo, người cục bộ chỉ quan tâm đến chân lý theo mức độ nó đẩy mạnh phong trào của mình. Quan tâm đến tôn giáo và luân lý, được hiểu theo nghĩa hẹp, linh mục xem ra dửng dưng, hay ngay cả thù nghịch, đối với những giá trị ‘chỉ’ nhân bản ‘suông’, như khoa học, văn chương và nghệ thuật. Nếu am hiểu, linh mục dùng kiến thức như một vũ khí “đánh bại kẻ thù” – hoặc là vô thần, Tin lành, hay mới đây hơn, “những nhà tư bản bóc lột.”
Vậy, đây là một trong những thách đố lớn cho mà linh mục Công giáo chúng ta đối diện ngày nay: cung cấp sự lãnh đạo tri thức cho việc đào luyện một giới trí thức công giáo. Ngài phải giúp tín hữu hiểu và diễn đạt gọn ghẽ đức tin công giáo theo một cách thức đến nỗi đức tin có ý nghĩa trong thế giới hôm nay. Ngài phải khởi hứng họ để đánh giá, phê phán, và đào sâu đời sống tri thức của quốc gia.
Tôi viết rộng rãi hơn về nhu cầu đối với tư cách lãnh đạo tri thức, không phải bởi vì đây là thách đố duy nhất mà hàng giáo sĩ Công giáo đối diện ngày nay, nhưng bởi vì đây là cái ít được tri nhận nhất, và bị lãng quên nhất. Có nhiều trách vụ khẩn cấp khác mà tôi phải nêu lên. Hãy cho phép tôi nhắc đến một ít điều. Biết bao người dân Việt chưa biết Đức Kitô. Chúng ta cần nghĩ ra những cách để vươn tới họ, giải thích cho họ Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta cũng phải giáo dục giới giầu có và trung lưu Công giáo về bổn phận luân lý để giúp những người nghèo. Các người công giáo nam nữ phải cộng tác với những người Việt nam khác trong việc tìm ra những cách thức loại trừ nghèo khổ trong quốc gia chúng ta, giúp quê hương đất nước chúng ta vươn lên khỏi vùng cát lún của sự nghèo khổ ngày một tồi tệ mãi.
Một cách nghịch lý, giáo sĩ sẽ thành công trong việc cung cấp tư cách lãnh đạo tri thức và ảnh hưởng ý thức xã hội của dân chúng, chỉ với điều kiện họ không coi những điều này như những trách vụ then chốt. Trung tâm của Tin Mừng là tiếng gọi của Thiên Chúa tới sự hiệp thông vĩnh cửu của đời sống với Ngài, và với nhau, bằng cách đồng hình với đời sống, cái chết và sự phục sinh của Con Ngài. Sự biến đổi của chúng ta thành Đức Kitô trải rộng tới toàn thể con người. Vì thế, phải nắn hình văn hóa và xã hội. Chúng ta thông phần vào tình yêu Đức Kitô chỉ chân thực với điều kiện chúng ta yêu mến, không chỉ bằng lời mà cả bằng việc làm. Vì vậy, bổn phận của chúng ta là giúp đỡ người nghèo khổ và bị áp bức. Nhưng Tin Mừng không được bẻ cong thành một quan tâm văn hóa hay xã hội suông mà thôi. Tin Mừng có thể biến đổi thế giới chỉ bởi vì Tin Mừng gọi chúng ta vượt quá thế giới này. Ở đây chúng ta chỉ có thể tiên hưởng và chuẩn bị cho tiệc cưới trên trời.
10. NHỮNG GHI NHẬN KẾT LUẬN VỀ LINH ĐẠO LINH MỤC
Ở đây tôi tóm kết, và rút ra một kết luận, mà được nói ở trên liên quan đến linh đạo linh mục. Nó phải được dựa trên điều linh mục là gì. Ngài “được dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa.” (Rm 1, 1) hầu ngài có thể hành động theo đặc sủng ngài nhận được trong việc thụ phong. “Bởi chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa ; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu.” (2 Cr 4:5). Linh mục biểu thị cả Đức Kitô và Giáo Hội bằng cách là tôi tớ của cả Đức Kitô lẫn Giáo Hội.
Linh mục cầu nguyện lên Chúa Cha nhân danh Giáo Hội, trong sự kết hiệp với Đức Kitô (Thánh Thể, bí tích giao hòa, phụng vụ giờ kinh); nhưng linh mục cũng hành động theo ngôi vị của Đức Kitô (sự đồng nhất bí tích) loan báo những lời thánh hiến và tha thứ (xóa tội). Trong con người của linh mục, hoạt động của Đức Kitô và của Giáo Hội, gặp gỡ và nối kết cùng nhau.
Ngài phải sống sự biểu thị lưỡng diện này bằng cách tự do để cho mình được Đức Kitô và Giáo Hội chiếm đoạt, ghi nhớ rằng mình không phải là Đức Kitô, nhưng biểu thị Đức Kitô. Như Gioan Tẩy giả linh mục phải nhỏ đi hầu Đức Kitô tăng trưởng nơi mình. Như vị linh hướng khôn ngoan nọ đã nói: “Mỗi ngày hãy quỳ gối trước chức linh mục của cha!”
Nếu cho phép Đức Kitô sống và hoạt động trong mình, linh mục có thể “trương rộng” cõi lòng và ôm ấp với chính tình yêu (từng chữ, ‘với khúc ruột’) của Đức Kitô (Pl 1: 7–8), tất cả mọi người, cả thế giới, và tất cả cá nhân đến với linh mục để xin giúp đỡ(2 Cr 6: 11–13; 7:2–4). Như Phaolô, linh mục phải cố gắng trở thành tất cả cho mọi người, hầu có thể cứu được một số người (1 Cr 9:22–23).
Cá nhân linh mục phải đi vào trong những hành động bí tích mà linh mục thực hiện bằng cách làm cho lời cầu nguyện của Giáo Hội và Đức Kitô, thành chính lời cầu nguyện của mình. Phaolô nói cho các tín hữu ở đầu các lá thư của mình rằng ngài liên lỷ cầu nguyện cho họ, và tạ ơn Thiên Chúa vì họ. Vì thế, linh mục phải trở thành người của cầu nguyện vốn mang những nhu cầu của dân đến Thiên Chúa.
Như thánh Phaolô, linh mục phải hành động như một người cha và một người mẹ đối với dân mình (1 Cr 4: 15; Gl 4:19). Nhưng khi cần thiết, linh mục phải mạnh mẽ và không thỏa hiệp, dùng quyền năng nhận được từ Đức Kitô (2 Cr 12:19– 21; 13:10).
Linh mục sẽ kinh nghiệm mình không thích hợp, giống như Phaolô vậy; nhưng, ngài phải tin tưởng rằng sức mạnh của Thiên Chúa sẽ được hoàn thiện trong sự yếu đuối (2 Cr 12:7–10). Linh mục phải cố gắng để sao cho hiệu quả, nhưng không bao giờ liều lĩnh để quyết định tác vụ của mình hiệu quả như thế nào. Như tông đồ Phaolô, linh mục phải chấp nhận rằng cuộc đời của mình sẽ được dâng hiến mà không có thành công hữu hình. Khi bị tù đầy và đối diện với án tử có thể xảy ra, ngài vẫn hân hoan: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em” (Pl 2:17). Trong thế kỷ 20, hàng ngàn linh mục bị tra tấn và giết do những chế độ Đức Quốc Xã và cộng sản, những linh mục mà không thể nhìn thấy bất kỳ hoa quả hữu hình nào của sự hy sinh của mình. Tuy nhiên, nhiều người trong họ cảm thấy điều mà một linh mục ốm yếu trong nhà thương của ngục tù nói cho người khách bí mật của mình: “hãy nói cho các anh em tôi rằng tôi hạnh phúc.” Vì vậy, cộng đoàn tôn giáo của ngài vẫn sống, và thậm chí ban tặng sự sống cho một cơ sở mới. Năng lực và vinh quang của Giáo Hội luôn trổ bông lại từ thập giá của Đức Kitô.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 77 (tháng 7 & 8 năm 2013)
Roch Kereszty, O.Cist.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Am, S.D.B. chuyển ngữ
[1] Diễn từ này được nói đầu tiên cho cộng đoàn chủng viện Kenrick– Glennon tại Rigali Center in Saint Louis, Missouri, như Kenrick Lecture hàng năm vào tháng Mười, 2011.
[2] Yves Congar, Gospel Priesthood (New York: Herder & Herder, 1967); André Feuillet, The Priesthood of Christ and His Ministers (Garden City: Doubleday, 1975); Albert Vanhoye, Old Testament Priests and the New Priest (Petersham, MS: St. Bede’s Publications, 1986).
[3] Pope John Paul II, Tông thư về Mầu nhiệm và sự Thờ phượng Thánh Thể (Dominicae Cenae; 24 February 1980) 8, được trích dẫn trong Thông điệp về Thánh Thể và mối liên hệ của Thánh Thể với Giáo Hội (Ecclesia de Eucharistia; 17 April 2003) 29. Ở đây Đức giáo hoàng minh định ý nghĩa thường bị hiểu sai về sự đồng nhất hóa phổ biến của linh mục thừa tác với vị Thượng tế Giêsu Kitô (“Người đang cử hành bằng một cách riêng biệt và bí tích hoàn toàn là như nhau với “vị Linh mục cao cả và vĩnh cửu”) của lá thư Sacerdotium ministeriale của Bộ Giáo lý Đức tin (6 August 1983) 4, trong AAS 75 (1983), 1001–1009, at 1006. Nhóm chữ “hoàn toàn như nhau” phải được hiểu theo nghĩa của “sự đồng nhất hóa biệt loại của bí tích.” Cũng x. Bộ giáo lý đức tin, tuyên ngôn về sự chấp nhận phụ nữ vào tư cách linh mục thừa tác (Inter insigniores; 15 October 1976), trong AAS 69 (1977) 98–116, ở 112–113. Hãy xem lời phê bình những tài liệu này do Robert Daly, người dựa trên sự nghiên cứu của Edward Kilmartin: R. J. Daly, “Robert Bellarmine and Post–Tridentine Eucharistic Theology,” Theological Studies 61 (2000) 239–260, at 240; and E. J. Kilmartin, The Eucharist in the West: History and Theology, ed. R.J. Daly (Collegeville: Liturgical Press, 1998) 384. Mặc dù lời phê bình của mình, Kilmartin (pp. 375–376) cũng chấp nhận rằng theo một nghĩa nào đó, linh mục cử hành biểu thị Đức Kitô.
[4] Cf. D. Ferrara, “In Persona Christi: Sự biểu thị của Đức Kitô hay Tôi tớ của sự hiện diện của Đức Kitô,” CTSA Proceedings 50 (1995) 138–145.
[5] Hans Urs von Balthasar and Joseph Ratzinger, Mary, the Church at the Source (San Francisco: Ignatius, 2005), 56–59.
[6] X., Roch Kereszty, “Prayer in the Life of the Priest,” Communio 26 (2009) 607–622